Đầu tiên phải công nhận tác giả lấy tên nhân vật Trăm Ngàn đặt tên cho tác phẩm dự thi là một ý hay nhưng chưa hay lắm bởi nó mang tính đánh đố nhằm gây sự tò mò, lối cuốn bạn đọc. Bởi trăm ngàn biểu thị về mặt tiền tệ chứ không phải văn học. Mà tiền thì ai cũng thiếu, cũng cần nên lao vào đọc ngay. Một cái hay nữa là gọi nhân vật này là “nó”. Từ dùng để chỉ người hay vật thuộc ngôi thứ 3. Nhưng cách gọi này cũng chưa hay lắm. Bởi “nó” ở đây đã xấp xỉ 50 tuổi rồi. Vậy ai dám gọi một gã trung niên này là “nó”. Tác giả hay nhân vật trung tâm? Người đóng vai chính hay vai phụ trong các tuyến nhân vật ấy? Tuy nhiên càng đến cuối truyện thì người viết đã giảm bớt cách gọi phạm thượng này, khiến người đọc cảm thấy nhẹ nhàng, thoái mái hơn.
Cốt truyện cũ, mỏng manh, xuất hiện vào khoản đầu thập niên 70, đã trình làng nhiều lần qua các thể loại cải lương, kịch nói, phim ảnh xoay quanh gánh hát cải lương hoạt động ở miền Tây bồng bềnh sông nước bấy giờ ế ấm, nhất là vào những ngày mưa, đêm mưa dầm dề. Tập trung vào “chân chạy vặt” mà theo cách gọi hiện nay là nhân viên phục vụ gần 50 tuổi, tên gọi Trăm Ngàn. Tên gọi Trăm Ngàn đặt cho đứa con ngoài giá thú, không được đàn gái chấp nhận do tư tưởng môn đăng hộ đối thời phong kiến lạc hậu lưu lại.
- Gia đình bà không xứng để tui gả con, nói thằng Bình con bà đừng trèo cao. Lần này tui qua trả cháu và phạt vạ một trăm ngàn đồng. Bà chuẩn bị đi, mai tui cho người qua lấy.
Không biết phạt vạ là phạt kiểu gì, ai quy định, ai làm chứng, ai viết biên lai thu tiền? Cái tên Trăm Ngàn cũng lý giải đến mức độ này thôi, không thêm không bớt gì nữa.
Được biết các loại hình nghệ thuật nói chung, cải lương nói riêng vào cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 hoạt động cầm chừng, nếu không muốn nói rằng rất khó khăn, bởi đời sống vật chất lẫn tinh thần bấy giờ còn eo hẹp. Người dân phải đối mặt với muôn vàn thử thách hỏi làm sao họ đủ điều kiện để giải trí chứ! Lâu lâu mới có đoàn hát, gánh hát cấp tỉnh, cấp huyện về phục vụ, như vậy cũng hạnh phúc lắm rồi. Đoàn hát ngày xưa thường lưu diễn bằng phương tiện ghe hoặc xe đò. Đoàn cấp tỉnh thì có xe riêng của đoàn đưa đi, còn đoàn hát cấp huyện hoặc đoàn do tư nhân tự thành lập thì toàn bộ phải mướn phương tiện di chuyển. Ở đây không thấy tác giả nói gánh hát cải lương này thuộc cấp nào? Cơ quan chủ quản thuộc về huyện hay tỉnh? Nghe na ná giống mấy gánh hát trước năm 75 thì câu chuyện nó lại đi xa lắm.
Mặc khác nhân vật Trăm Ngàn tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn. Đối với cô Thúy, người chuyên đảm nhận vai hoàng hậu nhận xét.
- Đoàn này mà không có ổng lo chuyện cơm nước chắc chết đói hết.
Đối với ông Bình - Trưởng đoàn thì bảo.
- Phải chi nó có thêm chút mã bên ngoài, tao cho nó đóng vai hoàng tử, tướng quân. Tội, nó theo gánh này lúc còn non nớt, giờ đã gần năm mươi tuổi mà cũng làm chân chạy vặt, đóng vai lính quèn, tàn tật xấu xí không à. Trời sanh không thương đồng đều. Sao người thì đủ cả tài sắc, tiền của, tình thương, mỗi nó không có gì cả.
Đến đây tác giả chưa khẳng định tài năng của Trăm Ngàn, ngoại trừ một số hình ảnh liêu xiêu chạy tới, chạy lui trong gánh hát. Riêng anh Tân thì quả quyết.
- Tui thấy giọng hát ổng rất có hồn, có khi còn mùi mẫn hơn tui, mấy lần ông cho ổng đóng vai Trương Chi xấu xí, khán giả khóc hết nước mắt ông không thấy sao. Ông đặt cái tên khác, không ai kêu ổng bằng cái tên “Trăm Ngàn” này nữa, rồi mới nguôi ngoai được. Chứ ngày nào người ta cũng thay phiên nhắc nhớ lại quá khứ cuộc đời, sao mà ổng sống dui lên được.
Gánh hát không biết tổng cộng mấy người nhưng đã có nhiều ý kiến trái chiều về tài năng, đức hạnh của Trăm Ngàn, hà huống anh này nổi tiếng không biết có trụ lâu được không? Đã có lần Trăm Ngàn đi tìm mẹ từ lúc tóc còn xanh đến nay đầu đã bạc, nhưng cũng qua loa đại khái chứ không sâu sắc lắm. Nói chung tình mẫu tử không có đất dụng võ trong truyện này, mặc dầu xuất phát điểm của Trăm Ngàn thuộc về trẻ sơ sinh bị mẹ bỏ rơi. Sau đó thì tác giả tiếp tục khai thác đến công việc vất vả của Trăm Ngàn thông qua sự khó khăn thiếu thốn chung của gánh hát vốn rất bình thường trong giai đoạn đó như đã viện dẫn ở trên.
- Những phận người trôi nổi gặp nhau dưới cái đoàn hát này. Ngày vui thì ít vì nỗi buồn cứ theo mưa nắng len vào không khí, cứ hít thở là nghe nó nằng nặng trong ngực, mà cũng không hẳn là buồn, có khi chỉ là cái tâm trạng thừa thãi, trách móc, hoặc cái kiếp “xướng ca vô loài” nó thế.
Đại loại câu chuyện gánh hát được mô tả như thế, song theo tôi câu thành ngữ “xướng ca vô loài” không nên đặt vào hoàn cảnh này, bởi ai cũng tội nghiệp hết mà, có ai chướng tai gai mắt đâu mà chửi họ loài này loài kia chứ! Tên gọi và gánh hát cải lương tạm ổn, tác giả lui về quá khứ của Trăm Ngàn vốn cơ cực thường thấy trong các tác phẩm viết về nông thôn Việt Nam bấy giờ. Đặc biệt là miền Tây phù sa bên bồi bên lở.
- Ban trưa nơi xứ ruộng đồng nắng rát da, ai cũng tránh nóng trong nhà, có làm gì thì cũng chờ xế chiều một chút. Nhưng Trăm Ngàn thì khác, trời hạn, nó phải lùa trâu đi xa hơn uống nước. Dáng nó nhỏ xíu trong bộ đồ cũ của mấy người trong xóm cho, lưng quần rộng thì lấy dây cột lại. Bà Ba nghèo tới nỗi không mua được cho Trăm Ngàn đôi dép, nó cứ chân đất đầu trần, da đen nhẻm. Trâu uống nước xong xuôi đâu đó, nó lùa về gần xóm, chỗ có rặng trâm bầu đặng đỡ nắng chút nào hay chút đó.
Chắc chắn Ban biên tập đọc đến đoạn này sẽ rơi nước mắt? Sẽ cảm động mà đánh dấu X vào tác phẩm dự thi. Họ bỗng chốc quên mất hạ tầng nông thôn miền Tây đang dần dà chuyển hóa. Lác đác có đường bê - tông láng bóng, nông dân chạy xe máy vù vù, quần áo giày dép cũng rẻ đâu đến nổi lấy dây cột lưng quần. Theo tôi đây cũng là cửa ải lớn nhất mà văn nghệ sĩ chúng ta khó vượt qua được. Bởi viết gì thì viết cũng phải than nghèo kể khổ một đoạn, phải đau đớn quằn quại một khúc mới hấp dẫn. Nếu không muốn nói hèn mọn đến mức một thanh niên có tâm hồn nghệ sĩ, từng đóng vai Trương Chi lấy đi không biết bao nhiêu nước mắt của khán giả lại không sắm nổi cho mình một đôi dép cùn. Bố cục thế nào thì tùy nhưng phải mang tinh thần phải cộng sản chủ nghĩa, phải đại diện cho người nghèo, phải thay mặt cho tầng lớp lao động để bạn đọc rủ lòng thương hại mà ủng hộ.
Ở miền Tây ai cũng mê cải lương, ai cũng ngân nga được vài câu vọng cổ, âu cũng là đặc sản của miền sông nước từ bao đời nay. Nhân vật Trăm Ngàn cũng nằm trong danh sách mộ điệu đó, nên chi tác giả không khai thác về đề tài cải lương mà chuyển sang tình yêu nam nữ giữa anh và cô Diễm, bạn cùng xóm.
- Diễm nhỏ hơn nó hai tuổi, bằng tuổi thằng Tài. Hai đứa nó học cùng lớp. Mỗi ngày thấy hai đứa nó đi học chung, Trăm Ngàn chỉ biết ước ao cũng được đi chung với con Diễm. Biết Diễm thích ăn me dốt bột, nó chờ tới mùa là leo cây me hái, có bữa bị ong đánh sưng hết mặt mày. Dần dần hai đứa cũng thân. Diễm có đồ ăn cũng hay mang cho nó.
Tình yêu của Trăm Ngàn dành cho Diễm rất đẹp và nên thơ như bao nhiêu đôi lứa yêu nhau từ cổ chí kim, không có gì đặc sắc. Duy nhất.
- Mỗi ngày đi giữ trâu, Trăm Ngàn đều mang theo một cái bao để mót lúa. Hôm nay mót được bộn lúa, đổ dồn vào mớ lúa mót từ tuần trước thì lúa đã đầy bao. Nó mừng ran, nhảy chân sáo mang đi bán. Tiền mang về, nó cột thun cẩn thận rồi để trong áo gối. Tối tối hay lấy ra đếm, nghe bà Ba bảo muốn cưới con gái người ta thì phải có tiền. Nó sẽ mót tiền để cưới con Diễm.
Và Diễm bắt đầu dạy học cho Trăm Ngàn bởi anh không biết chữ, hình ảnh này rất quen thuộc trong các phim nói về cư dân miền Tây. Có điều qua bút pháp của nhà văn đạt giải câu chuyện trở nên “rôm rả và ngày càng cuốn quýt” hơn. Và càng hấp dẫn hơn là hành vi ghen dùm cho thằng Tài của bà Hội và Hai Bình bởi mỗi khi thấy Trăm Ngàn đến gặp Diễm, Tài lại chạy về mách lẻo với bà nội. Biết chuyện bà và cha Bình lại thi nhau đánh cho Trăm Ngàn một trận lên bờ xuống ruộng. Cứ tưởng Hai Bình đánh Trăm Ngàn thì bà Hội can, bà ôm Trăm Ngàn vào lòng an ủi, yêu thương theo logic thông thường trong đời sống thực tế cũng như đạo lý văn chương. Song tình huống hoàn toàn ngược lại, cả hai người liên kết động thủ khiến Trăm Ngàn sống không bằng chết.
- Thằng Tài mỗi lần thấy Trăm Ngàn qua tìm Diễm là về méc bà Hội, bà Hội gọi Trăm Ngàn về đánh đòn về tội trốn làm đi chơi. Mỗi lần bị đánh là những vết roi mây hằn lên lưng cả tháng còn chưa lặn. Lúc bà Hội không có ở nhà, thằng Tài sẽ méc cậu Hai Bình, cậu Hai Bình cũng cho Trăm Ngàn ăn roi mây túi bụi. Con Diễm thấy Trăm Ngàn bị đòn là khóc như mưa. Nhưng Trăm Ngàn cũng không chịu bỏ, tối nào cũng qua nhà Diễm tập đọc tập viết. Ba má Diễm cũng là dân lao động cày cấy ruộng đồng, thấy Trăm Ngàn chịu học nên cũng thương, hay cho bánh trái, cơm nước.
Riêng đoạn này hơi khập khiễng.
- Nó tính toán với bà Ba chuyện cưới xin đâu đó xong xuôi, trở vào buồng lấy tiền thì phát hiện cục tiền đã mất. Nó lật tung giường chiếu lên tìm cũng không thấy, nó khóc mếu, số tiền dành dụm bao nhiêu năm trời. Bà Ba mang chuyện thưa với cậu Hai và bà Hội, vừa lên thưa thì thấy thằng Tài ngồi đếm tiền, nó gỡ từng cọng thun ra, thản nhiên ngồi đếm như là tiền của nó. Trăm Ngàn tức điên máu đã đánh thằng Tài chảy máu răng. Bà Hội đứng ngồi không yên, đòi gọi cảnh sát vào gông cổ thằng Trăm Ngàn đi. Bà Ba quỳ xin cả đêm bà Hội mới nương tay. Bà nói trong tháng này bắt nó phải đi biệt xứ, tháng sau bà sẽ cưới con Diễm cho thằng Tài, gia đình con Diễm sống trên đất nhà bà, nếu không gả con thì dọn đi đất khác mà sống.
Lại một kiểu áp bức quen thuộc giữa tầng lớp địa chủ phong kiến với người ăn kẻ ở trong nhà. Một sự tái hiện khá nhàm chán mà vẫn được chấp nhận. Không lạ mới lạ! Lạ nữa là cảnh sát nào gông cổ Trăm Ngàn một khi chưa lập biên bản, chưa lấy lời khai, chưa thu thập chứng cứ hiện trường? Hơn nữa ở nước ta các địa phương bấy giờ chỉ có Công an khu vực hoặc Dân quân du kích, sau này đổi lại thành Dân phòng. Chưa biết ai đúng, ai sai lại đi bắt người? Đồng ý là văn chương phụ thuộc vào ngữ cảnh, hoàn cảnh song phải hợp tình, hợp lý. Sau một vòng bị đánh ghen, đấu đá với tình địch, với kẻ cắp vô liêm sĩ. Trăm Ngàn lại tiếp tục hành trình tìm mẹ. Người đàn bà bỏ rơi anh từ khi mới lọt lòng. Nhưng than ôi, bà mẹ khốn nạn ấy đã du học trời Tây, chẳng mảy may nhớ về đứa con bất hạnh của mình. Còn cha đẻ Hai Bình thì sao?
- Ông đối đãi với nó còn tệ hơn con chó, con mèo nuôi trong nhà.
Có phải đây chính là nút thắt dần được hé mở nhằm minh chứng cho cái tên Trăm Ngàn đau khổ, trăm ngàn hệ lụy, trăm ngàn oan ức, trăm ngàn tủi nhục không? Không biết, chỉ biết quyết định cuối cùng của anh là theo đoàn cải lương để rời xa nơi này càng sớm càng tốt. Nơi tước đoạt quyền đi hát, quyền làm chồng, quyền được yêu, được sống của anh! Thà rằng chấp nhận thủ vai kẻ hầu người hạ suốt đời cũng được.
- Ngày mai đoàn cải lương giở gánh đi rồi. Lần này nó quyết đi theo ông bầu, dù có diễn vai thằng hầu cả đời, dù lênh đênh đói no còn hơn cảnh ở ngay trong chính gia đình mình mà thấy đắng chát cuộc đời.
Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí. Đúng hay sai chẳng biết, chỉ biết chuyện không may cứ vận vào Trăm Ngàn.
- Mới sáng sớm thì đoàn tấp ghe vào một xóm làng nhộn nhịp, cắm sào che rạp. Trăm Ngàn lo chuẩn bị cái chòi để dựng lên cái bếp tạm sơ sài. Vừa làm vừa nói chuyện trên đời dưới đất, bỗng máu mũi nó chảy ra, rồi ngất lịm. Cả đoàn hú vía, bu lại, thằng Tân ẵm Trăm Ngàn chạy ra đường, gọi xe chở đi bệnh viện. Đoàn hát ai cũng lo lắng, không biết lại có chuyện gì xảy ra cho nó. Số nó đã khổ quá cha người ta rồi, xin đừng bày thêm chuyện.
Nhưng sao lại “ẵm” giống “ẳm” con nít vậy?
- Sau lần chảy máy cam đó. Bác sĩ chẩn đoán Trăm Ngàn bị bệnh ung thư gì đó nặng lắm, chắc cũng không sống được bao lâu. Mà đoàn hát thì làm gì có tiền chạy chữa. Đời bày nhiều cảnh đoạn trường bi đát lắm, còn hơn tuồng hát gấp bội lần đó đa. Ông Bình hay hút thuốc rồi than thở. Mặt ông cơ hồ thêm nhiều nếp nhăn từ hồi biết tin Trăm Ngàn bị bệnh. Cái đoàn hát này giờ như máu thịt của ông. Có hôm vãn tuồng, ông ngồi tần ngần trên sân khấu. Đèn tắt, màn buông, chỉ có cái tuồng đau tình phản bội trong lòng ông chưa lần nào khép lại.
Tinh thần lạc quan của Trăm Ngàn đánh thức sự cố gắng của đoàn, họ tự nhiên thông suốt, tự chấp vấn với nhau. Đời ngắn lắm nên những chuyện giận hờn, thù ghét, hãy dừng lại từ đây. Không nên theo đuổi hận thù chi nữa. Tuồng đau khổ nên sớm hạ màn chấm hết. Cả đoàn như cũng tỉnh ra, như những con chim được tháo cũi, được sổ khỏi những chiếc lồng thù hận, từ nay cho phép mình được bay trên đôi cánh không hận đời, ghét người, sống cho trọn những ngày còn được sống, được ca hát.
Một thông điệp tuy không mới song tính nhân văn vẫn còn tươi rói tựa ngày hôm qua được tác giả chuyển đến bạn đọc. Đó là sự buông bỏ, là tấm lòng từ bi hỷ xả cho con người được thanh thoát, cho cõi ta bà được thênh thang.
- Nó vẫn cười khà khà, đêm mưa vẫn ngồi kể chuyện với anh em. Nhưng đâu ai sắt đá được mãi, những đêm nằm trên ghe xuôi về hướng khác, Trăm Ngàn nghĩ lênh đênh cả đời vẫn không tìm được gì mà hổm giờ trong lòng chỉ thấy nhớ quê da diết. Nhiều đêm nằm mơ, thấy mình trôi theo sông về lại với xóm làng, mơ thấy bà Ba ra đón, thấy xác nó trôi trắng bệch, bà khóc đoạn trường. Sáng đó Trăm Ngàn nói với ông bầu chắc xin được về quê, sống đã tha phương nhưng chết không muốn gửi xương gửi thịt ở xứ người, xin được về lại xứ ruộng đồng ngày đó, nhắm mắt cũng tròn nguyện xuôi tay.
Tuy nhiên chỉ mới chảy máu cam thôi đã chẩn đoán ung thư, chỉ mới thấy nhớ quê da diết thôi mà đã nằm mơ thấy đoàn tụ ông bà. Quá nhanh, quá nguy hiểm. Song cái gì đến ắt sẽ đến.
- Ông bầu bảo để tao đưa mày về, sẵn hát ở xóm đó luôn. Nhưng đường dài, chắc đi nửa đường phải dừng lại hát vài bữa rồi đi tiếp, mày thấy được hôn. Trăm Ngàn đồng ý gật đầu. Cả đoàn hân hoan đưa Trăm Ngàn về quê, như là tiễn một người thân thuộc cho trọn tình vẹn nghĩa. Nhìn mọi người ai cũng quan tâm và động viên, Trăm Ngàn thấy mọi bệnh tật đều được hóa giải, sống ở đời này, được thương yêu đùm bọc như thế này là đủ mãn nguyện lắm rồi.
Tác giả tiếp tục hồi hướng bạn đọc về miền quê yên ã sau chặng đường cơm áo bon chen, không ai không gặp phải. Không ai phủ nhận quê hương là bến đổ cuối cùng cho một kiếp người phiêu dạt.
- Trăm Ngàn lại đi vào xóm. Nó vẫn kiên trì tìm kiếm cho đến cuối cùng rồi xuôi tay nhắm mắt cũng không còn gì hối tiếc. Xóm này rộng quá, đi mỏi chân, nói mỏi miệng mà vẫn chưa được nửa xóm. Mệt quá nó ngồi xuống nghỉ dưới một gốc cây, trời tối, sương đêm xuống mù mù, cái lạnh bắt đầu nhen lên. Nó co ro trong cái áo mỏng Ai ngờ, một bước đi ngàn dặm mịt mờ, đường quay lại đã lỡ làng đôi bận mà quê nhà chưa lần nào thấy lại. Cây me nhỏ bên cầu chắc nay đã tiễn đưa thêm nhiều được mất, chiếc xuồng con chắc đã cạn nước mắt vì chở đến bến cuối thêm không biết bao nhiêu cuộc đời.
Bất chợt Trăm Ngàn nhận ra thứ tìm kiếm cả cuộc đời này chính là cuộc sống đơn sơ ngày cũ với niềm hạnh phúc giản đơn, thuần khiết thuở ban sơ chưa từng nhuốm bẩn bởi gạo dầu dấm muối. Vậy mà!
Trăm Ngàn đã thả hồn vào những giấc mơ nửa hư nửa thực giữa chiếc xuồng chồng chềnh ai đó đã treo một ánh đèn vàng leo lét giữa đêm sương, lòng chỉ thèm một ngọn khói ấm bốc lên từ ly trà vị nhạt như giấc mơ yêu đương năm đó đã phai hồn bạt vía. Trăm Ngàn cố gắng bước tới, bước tới nơi neo đậu chiếc xuồng. Nhưng mắt mờ dần, ánh đèn vàng héo hắt, bước chân hẫng hụt, mệt mỏi, chênh chao. Lão chèo xuồng chính là Hắc Bạch vô thường mà người đời thường nhắc tới. Trên xuồng còn có một người đàn ông khác, tay cũng cầm chén trà chưa cạn, mặt mày vui tươi, huyên thuyên rằng.
- Bên kia sông là nhà của mẹ tui, ông thấy bà trẻ nhất ngồi trên ghế trước sân không, mẹ tui mất mấy năm trước, tới phút cuối lòng vẫn không nguôi tìm lại đứa con lưu lạc lúc tuổi trẻ dại khờ, tìm khắp tứ phương không gặp, lúc chết vẫn không nhắm mắt. Giờ tui được dịp gặp lại mẹ tui rồi. Duyên vẫn còn nên được gặp lại nhau.
Rồi Trăm Ngàn nhìn qua bên sông, có người phụ nữ trẻ ngồi trước ngôi nhà lộng lẫy nguy nga, xung quanh người hầu kẻ hạ đủ đầy, xem ra là người gia thế, xuồng đi gần đến một chút nữa, nó nhận ra người phụ nữ trẻ đó chính là người mẹ trong ảnh mà bà Ba đưa cho nó. Mất mấy giây rồi nó òa khóc như trẻ con. Thì ra mẹ cũng đi tìm nó bao năm. Nước mắt nó chảy dài. Kiếp này vậy là nó đã mãn nguyện.
Người lái đò giục khách uống hết chén trà, trà cạn là thuyền đến bến. Vội vã uống cạn, ngẩng đầu lên, Trăm Ngàn thấy mình là đứa bé đang được mẹ cho bú, người khách đi cùng cũng được sinh ra cùng lúc với mình. Thì ra đời đã đi hết một vòng tròn. Ngày tao ngộ tưởng xa cách nghìn sông vạn núi nhưng lại gần, chỉ bằng khoảng cách một hơi thở lìa đi và hơi thở mới bắt đầu. Thì ra là chỉ cách một kiếp người.
Mờ sáng tinh sương đoàn hát tìm thấy Trăm Ngàn nằm ngay mé sông, gương mặt hiện lên rõ ràng một nụ cười thanh thản, nét mặt rạng rỡ thanh xuân. Con Thúy khóc nấc ôm Trăm Ngàn lên, người nó đã cứng đờ. Ông bầu nước mắt ròng ròng bảo.
- Sao không chờ tao đưa mày về xóm.
Anh em trong đoàn gom tiền hát tối qua để mua cho nó một cái quan tài đơn giản, bỏ theo đó bộ đồ diễn tướng quân. Mong kiếp sau nó được toại nguyện vào vai hiển hách. Anh em trong đoàn mỗi người một tay, nước mắt ngắn dài, ngày cuối nó được ở trong vòng tay của anh em đoàn hát, ngôi nhà bảo bọc nó bao năm nay, chắc nó đã mãn nguyện và ấm áp kiếp người nhiều trắc trở.
Trưa đó đoàn nhổ ghe, xuồng băng băng đưa Trăm Ngàn về lại nhà xưa quê cũ, gió thổi ù ù bên ghe, nắng ngấp nghé trên chiếc hộp gỗ vuông đặt vừa vặn giữa xuồng, nước vỗ về ôm ấp. Xuồng đi ngang cây me nhỏ bên cầu, gió trút lá rơi như tiễn đưa kiếp người về đất. Chiếc xuồng con đã đưa người về lại bến cuối cuộc đời.
[Hết truyện]
Một truyện ngắn cũ, sáo mòn, cố gắng đọc từng câu, từng chữ để tìm ra cái mới, cái sáng tạo vốn dĩ đóng đinh trong sáng tác văn học vẫn không thấy. Nào là gánh hát cải lương ọp ẹp thập niên 70, một chân chạy vặt khiêm tốn về ngoại hình chuyên đóng vai lính lệ, bị đoàn đánh giá sai về chuyên môn. Một cái tên mang nổi đau về sự bất hạnh, một đứa con bị bỏ rơi không được chấp nhận của cha mẹ, một mối mối tình thơ ngây vụng dại của đôi trai gái nông thôn bị đồng tiền chi phối, cha mẹ cấm cản. Một sự trấn lột tiền bạc trơ tráo ngay trong nội bộ gia đình, một sự bao che tội lỗi, một cái cúi đầu ô nhục. Một anh nông dân không biết chữ không đi làm thuê, làm mướn thì biết làm gì? Các hình ảnh, nhân vật, tên gọi trên xuyên suốt trong quá trình hình thành câu chuyện. Tuy nhiên đoạn cuối tác giả lại chuyển hướng nói về cái chết một cách khá liêu trai của nhân vật chính, loáng thoáng trong các trang cổ tích huyền thoại. Sự yên nghĩ cuả anh bên bờ sông lạnh lẽo mà tâm tưởng hướng về nghệ thuật cải lương như một định mệnh an bài, một lời nguyền nghiệt ngã. Sự bao dung, thương tiếc của đồng nghiệp, bạn bè phần nào cũng an ủi anh như một ân huệ cuối cùng cho một kiếp giang hồ phiêu dạt rày đây mai đó.
Song theo tôi cái chết liêu trai ấy vẫn không cứu cánh nổi cốt truyện quá cũ, với hơn 5000 chữ bắt nguồn từ thập niên 70, không chuyển tải thông điệp gì mới, giá trị gì cao nhằm áp dụng vào thực tế cả. Đơn giản là nghệ thuật cải lương vốn đã bảo hòa lâu rồi, hiện nay khán giả đang chú tâm đến ca cổ hơi dài 100 chữ/câu chẳng hạn. Nghệ sĩ trẻ bây giờ vẹn toàn cả thanh lẫn sắc thì hình ảnh cái “chân chạy vặt” ở gánh hát “tàn tật, xấu xí” ấy cứ mờ dần rồi mất dạng trước khi bạn đọc gấp lại trang viết. Ngoại trừ cụm từ lạ lắm đa/ đày ải đó đa/ mệt quá đa/ mới được đa/ gấp bội lần đó đa… được lặp đi lặp lại nhiều lần trong các câu thoại. Còn “đa” là gì chẳng ai biết? Đúng là truyện ngắn một Trăm Ngàn quá đắt!
Tp. Hồ Chí Minh, 8. 2025
Bình Địa Mộc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét